Công tác xã hội (CTXH) là một công việc đặc biệt tồn tại song hành và hỗ trợ đắc lực thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, nhưng đến năm 2010 mới chính thức được Nhà nước công nhận là một nghề. Trên địa bàn tỉnh ta, nghề CTXH đang được các cơ quan chức năng quan tâm phát triển, nhưng vì là một nghề mới chưa có những chính sách đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ hợp lý, nên vẫn lúng túng với tình trạng thiếu mà thừa nguồn nhân lực....
1. Đắk Lắk phấn đấu xây dựng "một xã hội không bạo lực, không xâm hại trẻ em"
Trong nhiều năm qua, công tác Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em được UBND tỉnh Đắk Lắk quan tâm, chỉ đạo các địa phương thực hiện nghiêm túc, trong đó, kế hoạch, mục tiêu ngày càng được chú trọng và đã thu được những thành quả đáng khích lệ...
Công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em đã ngày càng được cải thiện, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và nâng cấp. Hầu hết các xã trên địa bàn tỉnh đều có trạm y tế. Tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng giảm; trẻ khuyết tật, tàn tật đã được chăm sóc dưới các hình thức khác nhau, như: phẫu thuật, chỉnh hình phục hồi chức năng… để các em được hoà nhập với cộng đồng một cách tốt nhất. 100% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em nghèo, trẻ em người dân tộc thiểu số và trẻ em dưới 6 tuổi được tiếp cận với các dịch vụ y tế. Từ đầu năm 2011 đến nay, BHXH tỉnh đã cấp mới 4.002 thẻ BHYT cho các em, giúp giảm bớt phần nào khó khăn cho gia đình các em khi đưa trẻ khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập; tổ chức khám sàng lọc cho 130 trẻ em bị dị tật vận động và bệnh mắt, đồng thời tổ chức đưa 107 cháu đi phẫu thuật và điều trị tại các bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh, trong đó 30 cháu bị bệnh tim bẩm sinh, 40 cháu bị dị tật vận động, 27 cháu bị dị tật hàm mặt và 10 bị các bệnh về mắt.
Cùng với đó, tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động truyền thông, tổ chức tập huấn phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ em trên địa bàn. Tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em ở cấp huyện, cấp xã; tiếp tục xây dựng và nhân rộng mô hình “Ngôi nhà an toàn với trẻ em” từ 13 xã năm 2010 lên 28 xã, phường năm 2011; đẩy mạnh công tác phòng chống tai nạn đuối nước cho trẻ em trên địa bàn tỉnh thông qua chương trình tổ chức phổ cập bơi và ký phối hợp liên ngành về phòng chống tai nạn đuối nước cho trẻ em tỉnh giai đoạn 2011-2015.
Trong nhiều năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể và nhân dân trên địa bàn Đắk Lắk đã có nhiều nỗ lực trong việc phòng ngừa và ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Hàng năm, UBND thành phố đã chỉ đạo các xã, phường tổ chức nhiều chiến dịch thu gom người lang thang, trong đó có trẻ em lang thang. Năm 2011, tỉnh đã thu gom được 25 em, đưa vào Trung tâm Bảo trợ xã hội và nuôi dưỡng tại Mái ấm 1/6 thành phố Buôn Ma Thuột. Hiện nay, toàn tỉnh có 2 Trung tâm và 6 cơ sở bảo trợ xã hội nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em không nơi nương tựa, trẻ em khuyết tật. Toàn tỉnh hiện có 1.275 trẻ em khuyết tật, bị tàn tật nặng, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS và 1.120 trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội.
Trẻ em phải lao động nặng nhọc, bị bạo hành, bị buôn bán, bắt cóc và vi phạm pháp luật đã được các cấp, các ngành chức năng quan tâm, điều tra và có các biện pháp xử lý nghiêm minh các đối tượng có hành vi xâm hại. Năm 2011, toàn tỉnh xảy ra 56 vụ xâm hại trẻ em, đã xử lý hình sự 42 vụ và xử lý hành chính 14 vụ. 233 đối tượng trẻ em và tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật cũng đã bị xử lý. Trong đó, 27 đối tượng đã được đưa vào trường giáo dưỡng, số còn lại được áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và gia đình.
“Tháng hành động vì trẻ em năm 2012” được triển khai trên phạm vi toàn tỉnh với chủ đề: "Vì một xã hội không bạo lực, không xâm hại trẻ em" đã thu hút sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, cộng đồng xã hội, cá nhân đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, huy động toàn dân tham gia giúp đỡ trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phù hợp với điều kiện thực tế trên từng địa bàn dân cư. Qua đó, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của gia đình đối với việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em; thúc đẩy vai trò chủ động, tích cực, tự tin, tăng cường sự tham gia của các em vào các hoạt động của gia đình, nhà trường và xã hội.
2. Nghề công tác xã hội: Thiếu mà thừa!
Công tác xã hội (CTXH) là một công việc đặc biệt tồn tại song hành và hỗ trợ đắc lực thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, nhưng đến năm 2010 mới chính thức được Nhà nước công nhận là một nghề. Trên địa bàn tỉnh ta, nghề CTXH đang được các cơ quan chức năng quan tâm phát triển, nhưng vì là một nghề mới chưa có những chính sách đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ hợp lý, nên vẫn lúng túng với tình trạng thiếu mà thừa nguồn nhân lực!
Chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội: Yêu cầu bức thiết
Theo số liệu của Sở LĐTB&XH, cả tỉnh hiện có khoảng 750.000 người (chiếm 43% dân số) cần được trợ giúp các dịch vụ xã hội. Đối tượng này đang có xu hướng gia tăng, đặt ra yêu cầu bức thiết về xây dựng đội ngũ làm CTXH chuyên nghiệp. Những năm qua, CTXH của tỉnh đã đạt những kết quả đáng kể, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và ổn định an ninh - trật tự trên địa bàn. Tỉnh đã quan tâm chỉ đạo , đầu tư nguồn lực thực hiện các chương trình giảm nghèo, trợ cấp xã hội, phòng chống ma túy, mại dâm, lây nhiễm HIV/AIDS, bạo hành phụ nữ và trẻ em…, bố trí, đào tạo cán bộ làm CTXH các cấp. Ngoài ra, còn triển khai nhiều biện pháp trợ giúp như tín dụng ưu đãi, hướng dẫn cách làm ăn, cấp thẻ BHYT, miễn giảm học phí, hỗ trợ xây dựng nhà ở, trợ cấp xã hội hằng tháng, tranh thủ sự hỗ trợ của nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước…
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động như: những biến đổi nhanh chóng về môi trường, kinh tế - xã hội; những thay đổi trong mối quan hệ gia đình và cộng đồng; quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, lao động di cư từ nông thôn ra đô thị… làm tăng vọt những nguy cơ và số lượng người bị ảnh hưởng cần được giúp đỡ. Theo thống kê sơ bộ, trong số gần 750.000 người cần trợ giúp các dịch vụ xã hội có gần 100.000 người cao tuổi; hơn 15.000 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 90.000 người khuyết tật; hơn 500.000 người nghèo và cận nghèo; 25.000 đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp thường xuyên tại cộng đồng; 1.800 người nghiện ma túy, người bán dâm, người nhiễm HIV… Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 35 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn, 110 xã có tệ nạn xã hội; nhiều hộ gia đình xảy ra bạo hành, bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em ở các mức độ khác nhau và các vấn đề xã hội khác như: ly hôn, người tàn tật, người già và trẻ em bị bỏ rơi… Sự biến động số lượng ở mỗi nhóm đối tượng này rất khác nhau, hơn nữa nền kinh tế phát triển nhanh, nhiều vấn nạn xã hội nảy sinh và cần có những nhà hoạt động xã hội chuyên nghiệp giải quyết.
Thiếu mà... thừa!
“Cần khoảng 1.000 người làm nghề CTXH chuyên nghiệp ở các cấp” - Đó là một trong những chỉ tiêu cụ thể của Kế hoạch thực hiện “Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010-2020” của tỉnh được UBND tỉnh phê duyệt tháng 3-2011.
Trên thực tế, hiện nay toàn tỉnh mới có khoảng 630 người làm trong lĩnh vực CTXH, trong đó cấp tỉnh 15 người, cấp huyện 45 người, cấp xã 350 người và tại các cơ sở bảo trợ xã hội, trung tâm giáo dục lao động 220 người. So với đối tượng cần trợ giúp các dịch vụ xã hội thì lực lượng này còn thiếu về số lượng, đặc biệt là hầu hết chưa qua đào tạo đúng chuyên ngành hoặc làm trái ngành, trái nghề; chưa được trang bị những kiến thức cơ bản, những nguyên tắc nền tảng, các phương pháp và kỹ năng trong khi tiếp cận, trợ giúp đối tượng nên hiệu quả trợ giúp chưa cao, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Chính vì vậy, để thực hiện được mục tiêu Đề án đặt ra là đến năm 2015 mỗi xã, phường, thị trấn có từ 1 đến 2 cán bộ, nhân viên nghề CTXH thuộc chức danh không chuyên trách hoặc cộng tác viên CTXH với mức phụ cấp hằng tháng bằng mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định là điều không đơn giản. Bởi theo kế hoạch thực hiện của Đề án, trong 8 năm nữa cần 1.000 cán bộ, nhân viên làm CTXH chuyên nghiệp, nghĩa là những cán bộ này phải có đầy đủ những kiến thức, kỹ năng cần thiết như: giao tiếp, kiểm soát cảm xúc, đồng cảm, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn, khai thác thông tin xâu chuỗi sự kiện, biện hộ cho nhu cầu của thân chủ; phát triển và tổ chức cộng đồng; vai trò của người cộng tác viên và tiến trình tổ chức cộng đồng... để có thể làm việc với tất cả các đối tượng cần trợ giúp.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh chỉ có duy nhất Trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) Dak Lak đào tạo nghề CTXH. Thầy Trịnh Đức Long, Trưởng khoa Xã hội và Nhân văn (Trường CĐSP Dak Lak) cho biết: Nắm bắt xu thế phát triển của xã hội, năm 2007 Trường đã mở ngành CTXH và mỗi năm học chiêu sinh 1 lớp từ 40 đến 50 sinh viên. Đến nay đã đào tạo 5 khóa và đã có 2 khóa tốt nghiệp, chất lượng đáp ứng khung đào tạo của Bộ GD-ĐT. Ngoài các giờ học lý thuyết theo khung đào tạo nhằm trang bị kiến thức cần thiết cho sinh viên, Trường tăng cường thời gian học phần rèn luyện kỹ năng nghề: kỹ năng phát triển cộng đồng, kỹ năng nhóm… tại các Trung tâm bảo trợ, các xã, phường trong tỉnh. Như vậy, nếu mỗi năm Trường CĐSP Dak Lak đào tạo chừng 50 sinh viên nghề CTXH thì 8 năm nữa cũng chỉ đáp ứng được gần ½ số cán bộ, nhân viên CTXH so với yêu cầu.
Tuy nhiên, trên thực tế đang diễn ra tình trạng thiếu nhưng lại thừa người làm CTXH. Như trường hợp Võ Thị Minh ở xã Krông Buk, huyện Krông Pak tốt nghiệp khoa CTXH, Trường ĐH Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh tháng 6 năm 2011. Sau gần một năm “gõ cửa” tìm việc tại một số trung tâm Bảo trợ, phòng LĐTB&XH và cả xã, phường trong tỉnh đều không có kết quả nên đành quay lại TP. Hồ Chí Minh tìm việc không đúng chuyên ngành. Hay như trường hợp Nguyễn Thị Hòa ở huyện Buôn Đôn, tốt nghiệp nghề CTXH Trường CĐSP Dak Lak gần 2 năm, đến nay vẫn thuê nhà ở Buôn Ma Thuột làm thuê nghề in ấn cho một cơ sở tư nhân sau khi đã tìm việc nhiều nơi mà không có kết quả… Theo điều tra sơ bộ cho thấy chỉ khoảng chừng ½ số sinh viên đào tạo chuyên ngành về CTXH ra trường làm đúng với nghề, còn lại đều đang làm những công việc đơn giản để mưu sinh. Ông Nguyễn Quang Trường, Phó Giám đốc Sở LĐTB&XH cho biết: CTXH là một nghề mới nên chưa có những quy định rõ ràng về biên chế, chế độ cụ thể. Thực chất từ trước tới nay đây vẫn là công việc của những người làm công tác LĐTB&XH. Các phòng LĐTB&XH và các trung tâm Bảo trợ xã hội biên chế cán bộ, nhân viên hầu như đã đủ số lượng cho phép, riêng ở các xã, phường thì những cán bộ làm công tác LĐ, TB&XH dù chưa được đào tạo chuyên nghiệp đang kiêm luôn cả nghề CTXH, điều cần thiết là đào tạo, trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng để có thể đáp ứng yêu cầu công việc. Trong năm 2011, Sở đã tổ chức được 3 lớp tập huấn cho cán bộ làm công tác LĐTB&XH ở 180 xã phường, trang bị những kiến thức về tiếp cận các đối tượng cần trợ giúp và những văn bản hiện hành, văn bản mới liên quan. Năm 2012 theo kế hoạch Sở sẽ tiếp tục mở các lớp tập huấn đào tạo kỹ năng (tiếp cận với người khuyết tật, điều tra về người già…).
Thực ra, nghề CTXH được đào tạo chuyên nghiệp sẽ trang bị những kiến thức sâu rộng, và rất nhiều kỹ năng như: kỹ năng về giao tiếp (nghe, đọc, nói, viết, thuyết phục… từng đối tượng); kỹ năng sống; kỹ năng truyền thông, vận động xã hội; kỹ năng làm việc (với cá nhân, cộng đồng, theo nhóm, với từng đối tượng, mà đối tượng cần trợ giúp thì có đến hàng chục dạng), rồi còn phải có kiến thức về luật pháp, cập nhật những văn bản quy định chế độ, chính sách cho từng đối tượng… Chính vì vậy người được đào tạo nghề CTXH có thể làm việc ở nhiều môi trường như cán bộ Đoàn, cán bộ Văn hóa - Xã hội; cán bộ các xã, phường; trong các ngành nghề như giáo dục, y tế… cũng đều cần có người làm CTXH. Xã hội càng phát triển thì nghề CTXH sẽ càng cần thiết và được trọng dụng. Hy vọng trong thời gian tới, Nhà nước sẽ có các chính sách cụ thể để nghề CTXH phát huy hiệu quả thực tế, chấm dứt tình trạng thiếu mà thừa người làm nghề CTXH chuyên nghiệp như hiện nay.
3. Huyện Cư Kuin (Đắk Lắk) nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo
Cư Kuin là huyện mới, được chia tách từ huyện Krông Ana của tỉnh Đắk Lắk với 8 xã, 113 thôn, buôn trong đó có 27 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Một bộ phận không nhỏ đồng bào có trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác lạc hậu nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Tính đến cuối năm 2011, số hộ nghèo trên địa bàn huyện là 3.684 hộ, chiếm 16,86%; trong đó hộ nghèo dân tộc thiểu số là 2.415 hộ.
Xác định việc thực hiện Chương trình giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và là nhiệm vụ quan trọng trong việc ổn định kinh tế - xã hội trên địa bàn nên ngay từ khi mới thành lập, huyện đã tổ chức kiểm tra rà soát lại danh sách các hộ nghèo, đánh giá đúng thực trạng hộ nghèo tại các xã, thôn, buôn và nhanh chóng xây dựng kế hoạch giảm nghèo, tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương.
Nhận thấy vấn đề xóa đói, giảm nghèo nhất thiết phải gắn với việc thay đổi thói quen canh tác và sản xuất của người dân do quỹ đất hầu như không còn để mở rộng sản xuất nên lãnh đạo huyện Cư Kuin xác định: công tác giáo dục nhận thức và tư tưởng cho bà con phải đi trước một bước. Chính vì vậy, việc tuyên truyền và triển khai các chính sách của Đảng, Nhà nước hỗ trợ hộ nghèo đã được lồng ghép trong các buổi tập huấn về công tác điều tra, khảo sát xác định các hộ nghèo; tuyên truyền trên loa, đài truyền thanh của huyện, xã và các thôn, buôn theo định kỳ.
Từ năm 2007 đến nay, năm nào địa phương cũng tổ chức các cuộc đối thoại giữa những người đứng đầu các ngành, các tổ chức, đơn vị có liên quan tới quá trình thực hiện các chính sách giảm nghèo trên địa bàn với đồng bào tại các thôn, buôn có đông hộ nghèo. Thông qua các cuộc đối thoại, nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc của bà con liên quan trực tiếp tới chính sách, chế độ đối với hộ nghèo dần được tháo gỡ. Đồng thời, chính quyền cũng nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và có những chính sách giảm nghèo phù hợp nhất. Với phương châm “cầm tay chỉ việc”, hàng năm huyện đều dành một phần quỹ nhất định cho các cán bộ làm công tác giảm nghèo và thường xuyên tổ chức tập huấn để phổ biến, cập nhật chính sách của Đảng và nhà nước về công tác này; định kỳ hai tháng giao ban một lần nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ.
Chia sẻ về những khó khăn ban đầu triển khai công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện, anh Trần Minh Thông – Trưởng phòng Lao động Thương binh Xã hội huyện Cư Kuin cho biết: Do nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, hơn nữa, tập quán sản xuất cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế của các hộ nghèo nên việc áp dụng các giải pháp nhằm tạo việc làm, từng bước cải thiện cuộc sống cho người nghèo gặp rất nhiều khó khăn. Hầu hết đồng bào đều không tận dụng quỹ thời gian của mình để lao động, sản xuất. Tuy nhiên, trong hai năm gần đây, công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo trên địa bàn huyện được triển khai sâu rộng đã giúp người dân tiếp cận nhiều hơn với các chính sách của Đảng và Nhà nước. Dân đã hiểu hơn các chế độ đối với người nghèo. Các ý kiến của dân liên quan tới các chính sách, chương trình giảm nghèo cũng đã bớt gay gắt hơn.

Cà phê - một trong những cây trồng chủ lực ở Cư Kuin
Thời gian qua, Cư Kuin luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền về dạy nghề; tập huấn cập nhật vấn đề cung – cầu lao động thường xuyên để có chính sách phát triển, hướng nghiệp phù hợp cho bà con. Do kinh phí cho đào tạo nghề còn hạn hẹp nên huyện thường xuyên trích tiền hỗ trợ dạy nghề từ ngân sách của địa phương. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo nghề cũng ngày càng được hoàn thiện. Các buổi tập huấn nuôi trồng cây, con giống được tổ chức thường xuyên để phục vụ chăn nuôi, sản xuất của bà con.
Các lớp dạy nghề với nhiều chuyên ngành như chăn nuôi thú y, cắt may, sửa chữa máy nông nghiệp…đã giúp ích rất nhiều cho bà con trong việc phát triển kinh tế và sản xuất. Đặc biệt, từ năm 2010 đến nay, huyện đều tích cực mở các lớp nuôi trồng nấm; trồng và chăm sóc các loại cây công nghiệp chủ lực như cà phê, cao su, ca cao, hồ tiêu… Nhận thức được quyền lợi trực tiếp của mình từ các lớp học nghề, bà con đều nhiệt tình đăng ký tham gia thông qua Hội nông dân của huyện. Năm 2011, huyện đã phối hợp với một cơ sở may công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ tạo việc làm cho các đối tượng tham gia lớp học nghề cắt may. 35 học viên đã có việc làm ngay sau khi được đào tạo. Năm 2012, khi tỉnh còn chưa cấp kinh phí cho dạy nghề thì huyện đã chủ động mở 3 lớp nhằm phần nào đáp ứng được nhu cầu học nghề của lao động nông thôn trên địa bàn.
Những năm gần đây, Cu Kuin tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi các mô hình sản xuất nông nghiệp như: mô hình trồng lúa lai, trồng bắp, trang trại chăn nuôi… Những gia đình mỗi năm có thu nhập khoảng một trăm triệu đồng ở huyện tương đối nhiều. Trên địa bàn huyện cũng đã xuất hiện nhiều gương điển hình trong sản xuất giỏi với thu nhập mỗi năm lên tới hàng tỷ đồng. Hàng năm, một lượng lớn đồng bào dân tộc thiểu số không được hưởng chính sách ưu tiên của nhà nước (do không thuộc xã khó khăn) nhưng tất cả đều nhận được sự hỗ trợ từ nguồn ngân sách của huyện. Các chương trình 112, 132, 134, 135, 139, 168 về các chính sách trợ giá, trợ cước, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, khám chữa bệnh, nước sinh hoạt, miễn giảm học phí và hỗ trợ đồ dùng học tập cho học sinh, dạy nghề ngắn hạn cho thanh niên dân tộc và lao động nông thôn; hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở và một số chính sách khác đã được triển khai trên địa bàn và đã có những kết quả tích cực.
Trao đổi với chúng tôi, chị H’Bliắk Niê – Phó Chủ tịch huyện Cư Kuin cho biết, từ năm 2009 đến 2010, ngoài nguồn hỗ trợ của Chính phủ để giải quyết vấn đề nhà ở cho hộ nghèo, huyện đều bố trí ngân sách hỗ trợ thêm cho mỗi hộ số tiền 4 triệu đồng. Và Cư Kuin đã trở thành huyện đầu tiên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hoàn thành chỉ tiêu về nhà ở cho hộ nghèo với 947 căn đã được xây mới trong hai năm. Tâm lý ỷ lại và trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước đã dần được đẩy lùi, nhường chỗ cho sự chủ động, mạnh dạn phát triển và nhân rộng các mô hình sản xuất mới, mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực.
Bằng những giải pháp nêu trên, giai đoạn 2007 – 2010, tỷ lệ hộ nghèo ở Cư Kuin đã giảm bình quân 3,77%/năm. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 7,25%. Về cơ bản, các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo trên địa bàn huyện đã có đất sản xuất, có nhà ở và nước sinh hoạt. Năm 2009, gần 291 ha đất đã được cấp cho 995 hộ theo Chương trình 134, hỗ trợ xây mới 895 căn nhà cho các hộ nghèo, cấp nước phân tán cho 847 hộ. Năm 2011, thêm 465 hộ được cấp nước phân tán theo chương trình 134 kéo dài với tổng kinh phí gần 3,5 tỷ đồng. 110 em đã nhận được sự hỗ trợ về giáo dục với số tiền là 217 triệu đồng; 25514 thẻ bảo hiểm y tế đã được cấp cho các đối tượng thuộc hộ nghèo. Hơn 1 tỷ đồng ngân sách huyện đã được đầu tư để phát triển cây, con giống trên địa bàn. 265 hộ trong diện gần đủ đất sản xuất (mức đủ là 3 sào trồng cà phê/hộ) đã được huyện hỗ trợ thêm 5 triệu đồng/hộ; 8 thôn buôn đặc biệt khó khăn thuộc 8 xã được hưởng lợi từ Chương trình 135…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện Cư Kuin thời gian qua vẫn còn tồn tại một số khó khăn. Trình độ của một số cán bộ làm công tác này còn hạn chế, đặc biệt là cán bộ ở các thôn, buôn. Mức phụ cấp cho các cán bộ chuyên trách ở cấp xã còn thấp. Một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số không biết chữ trong khi cán bộ trợ giúp pháp lý còn thiếu kinh nghiệm, chưa thạo tiếng dân tộc nên công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho người dân vẫn còn nhiều bất cập…
Trong thời gian tới, Cư Kuin phấn đấu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với giảm nghèo bền vững, tiếp tục cải thiện chất lượng sống của các hộ nghèo tại các xã, thôn, buôn trên địa bàn. Tạo cơ hội để người nghèo cũng như các hộ nghèo có việc làm thường xuyên, tăng thu nhập và ổn định cuộc sống; đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo và duy trì thành quả của công cuộc giảm nghèo, hạn chế tái nghèo. Bên cạnh đó, huyện sẽ tiếp tục tăng cường hơn nữa khả năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo. Cụ thể: giảm tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2012 xuống còn 13,65%; riêng hộ nghèo người dân tộc thiểu số xuống còn 33,6%. Bình quân giảm nghèo đạt 2 - 2,5%/năm. Bảo đảm các điều kiện thiết yếu về nhà ở, nước sinh hoạt, tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý cho các hộ nghèo, đặc biệt là hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã, thôn, buôn đặc biệt khó khăn. Tăng cường cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh, tiến tới đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn mới.
Để cụ thể hóa các mục tiêu trên, huyện sẽ triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp. Trong đó, tập trung tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, tạo sự chuyển biến về nhận thức trong toàn xã hội đối với công tác giảm nghèo. Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo, đặc biệt là cán bộ cấp xã. Tổ chức tập huấn về công tác giảm nghèo, rà soát hộ nghèo và thực hiện tốt công tác tuyên truyền về chủ trương, chính sách giảm nghèo của Đảng, Nhà nước, giúp các hộ nghèo chủ động hơn nữa trong phát triển sản xuất, cải thiện kinh tế gia đình. Tăng cường công tác giám sát và tự giám sát để đảm bảo các chương trình giảm nghèo được thực hiện có hiệu quả, đúng mục tiêu, đúng đối tượng. Tổ chức sơ kết, tổng kết định kỳ để đánh giá và rút ra những bài học kinh nghiệm. Giới thiệu và nhân rộng các mô hình làm kinh tế hiệu quả, đồng thời biểu dương những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn.