Thực hiện Nghị quyết số 20/2011 / QH13 ngay 26/11/2013 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề đang được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tích cực hoàn thiện, chuẩn bị trình Quốc hội vào năm 2014.
Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề đã giải quyết cơ bản những vấn đề về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục nói chung, dạy nghề nói riêng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI); giải quyết nhưng hạn chế, bất cập từ chính quy định của Luật Dạy nghề và bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành.Tuy nhiên, dưới góc nhìn quản lý hệ thống vĩ mô, vẫn còn một số những bất cập từ thực tiễn, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để hoàn thiện Dự thảo Luật.
Một số nội dung chính của Dự thảo Luật
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề cơ bản giữ nguyên kết cấu, thực hiện sửa đổi 28 điều, bổ sung 06 điều và một mục (3 điều); bỏ 05 điều và chương IX (04 điều) trên tổng số 92 điều của Luật Dạy nghề.
Nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào 03 nhóm vấn đề sau đây:
(1) Nhóm vấn đề được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy nghề theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) bao gồm các nội dung như: Đổi mới mục tiêu dạy nghề; đổi mới chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo dạy nghề; đổi mới tổ chức dạy nghề; đổi mới chương trình dạy nghề; đổi mới đánh giá, thi, cấp văn bằng, chứng chỉ; đổi mới kiểm định chất lượng dạy nghề; đổi mới hoạt động hợp tác quốc tế, công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia về bằng, chứng chỉ nghề và một số nội dung đổi mới khác
(2) Nhóm vấn đề được sửa đổi, bổ sung để giải quyết những bất cập của Luật hiện hành bao gồm các nội dung như: về việc xác định loại hình cơ sở dạy nghề; một số chính sách của Nhà nước về dạy nghề; dạy nghề thường xuyên; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở dạy nghề; về cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài; về chính sách đối với cơ sở dạy nghề; về tài chính, tài sản của cơ sở dạy nghề; về quyền, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề; về nhà giáo dạy nghề; về chính sách đối với người học nghề; về Quỹ hỗ trợ học nghề và một số bất cập khác.
(3) Nhóm vấn đề được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các luật khác bao gồm các nội dung như: về giáo trình dạy nghề, về giảng viên dạy nghề (theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục); bỏ Chương IX về đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia (theo Luật Việc làm) và một số từ, thuật ngữ khác theo một số luật có liên quan (Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Người khuyết tật.v.v...)
Về một số vấn đề trong Dự thảo Luật
1. Vấn đề nhận thức của xã hội về học nghề và phân luồng học nghề
Luật Dạy nghề đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2007. Bảy năm qua, với sự chủ động tích cực của toàn ngành và sự phối hợp tham gia của các Bộ, ngành, địa phương, Luật Dạy nghề đã thực sự đi vào thực tiễn, là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển dạy nghề, nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề, góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật trực tiếp cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay có một thực tế không thể phủ nhận là đa số người dân không muốn học nghề mà chỉ muốn học đại học. Cánh cửa các trường đại học ngày một rộng mở với nhiều hệ đào tạo, nhiều loại hình, tạo cơ hội tốt nhất để mọi người có thể đến với các giảng đường đại học. Và hệ lụy tất yếu, số người đến với học nghề thì ngày càng ít đi, trong khi đó, lao động qua đào tạo nghề lại là lực lượng lao động chính trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để khắc phục vấn đề này, Nhà nước đã có nhiều chính sách để tạo sự phân luồng học nghề được quy định trong Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, nhiều văn bản dưới luật và gần đây là Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 5/10/2011 của Bộ chính trị về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn (theo Chỉ thị số 10-CT/TW, đến năm 2020 có ít nhất 30% học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề).Tuy nhiên, các chính sách phân luồng nêu trên đều chưa thực hiện được. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó có nguyên nhân từ những chính sách quy định trong các văn bản luật không cụ thể.
Việc phân luồng học nghề không thuộc phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật, do vậy, chính sách phân luồng thể hiện trong Dự thảo Luật hướng tới những chính sách thu hút người học nghề vào học nghề (chính sách Ưu đãi, miễn giảm học phí.v.v..). Tuy nhiên, nếu không xác định được quy mô đào tạo, đối tượng đào nghề từviệc phân luồng cơ học (số phần trăm (%) người học sau trung học cơ sở, trung học phổ thông vào học nghề) thì thiết kế các chính sách đào tạo nghề trong Dự thảo Luật không thể đồng bộ và đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực quốc gia một cách tốt nhất.
Vấn đề đặt ra là: Chính sách học nghề như thế nào để người dân tự giác học nghề, say sưa với việc học nghề tương tự như với mục tiêu vào đại học hiện nay của họ. Thực tế, các chính sách dạy nghề cũng như các giải pháp dạy nghề chưa hấp dẫn và chưa đủ sức thuyết phục với xã hội. Do vậy, cần phải thể hiện rõ chính sách này, tạo sự phân luồng để hình thành 2 hệ thống: Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục hàn lâm (DẠY NGHỀ và ĐẠI HỌC).
Dự thảo Luật đã để cập đến một số chính sách cho người học, tạo sức hút đối với người học như chính sách miễn, giảm học phí; cơ chế dạy nghề «mở» (vừa học vừa làm, học từ xa, liên thông dọc, ngang trong hệ thống...), hình thức học tập đa dạng (chính quy, thường xuyên), nội dung học tập phong phú (vừa học nghề, vừa học văn hóa) bảo đảm quyền học nghề của mỗi người. Tuy nhiên, những chính sách này còn chưa đủ mạnh, chưa sát với đặc điểm, tính chất của dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay. Do vậy, ngoài các cơ chế, chính sách nêu trên nên mở rộng phạm vi điều chỉnh, bổ sung thêm các chính sách cho người học sau khi tốt nghiệp (chính sách tiền lương cho người học sau tốt nghiệp, tôn vinh người lao động .v.v...) để người lao động chuyên tâm với nghề. Đây cũng là cách để thu hút người học đến với học nghề.
Với nhận thức không đúng của xã hội về việc học nghề, làm nghề nên trong nhưng năm qua, người dân chỉ muốn con em của họ vào học đại học. Điều này dẫn đến một hệ lụy đáng buổn: Ngoài việc gây mất cân đối trong cơ cấu nhân lực của quốc gia, thiếu hụt lực lượng lao động qua đào tạo nghề cho sự phát triển kinh tế đất nước thì đó còn là sự lãng phí thời gian, tiền bạc, công sức của người học và gia đình của họ. Cụ thể như:
- Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hàng năm có hàng trăm ngàn học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông thi đại học nhưng không đỗ (năm 2012 có khoảng gẩn 400.000 thí sinh, năm 2013 có trên 600.000 thí sinh thi trượt đại học). Điều này vừa tạo ra sự tốn kém về tiền bạc (trong điều kiện kinh tế của nhiều gia đình còn hết sức khó khăn), vừa tạo nên sức ép về tâm lý xã hội đối với hàng trăm ngàn gia đình.
- Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học không có việc làm, hoặc làm việc trái nghề, hoặc phải đi học nghề để có việc làm cũng khá cao (điển hình tỉnh Thanh Hoá thống kê năm 2012 có 25000 cử nhân không có việc làm).
- Đối với người học tốt nghiệp trung học cơ sở (15 tuổi), nếu không có khả năng học lên trình độ cao hơn, nếu họ tham gia học nghề với thời gian từ 12 đến 24 tháng (tuỳ theo nghề và trình độ đào tạo) thì ngoài 16 tuổi họ đã tham gia thị trường lao động. Nếu họ có đủ năng lực để học lên trình độ cao hơn, họ cũng sẽ có nhiều cơ hội học tập như bổ túc văn hóa, học liên thông, vừa học vừa làm, học từ xa .v.v Nhưng nếu số người học này học tiếp lên trung học phổ thông, sau đó mới học nghề thì phải ngoài 20 tuổi họ mới tham gia thị trường lao động.
-Trong nhiều trường hợp, học nghề xong, khi vào doanh nghiệp làm việc doanh nghiệp phải đào tạo lại (nhất là doanh nghiệp FDI). Chất lượng dạy nghề không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp do chương trình đào tạo của cơ sở dạy nghề không tương thích với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.
Thực trạng trên cả xã hội đều nhận biết, nhưng đây là vấn đề lớn, có tính hệ thống, để khắc phục cần phải được giải quyết đồng bộ trong cả hệ thống, phải được điều chỉnh từ các luật liên quan như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Dạy nghề, Luật Việc làm, Bộ Luật lao động.v.v...
2. Vấn đề dạy nghề với doanh nghiệp
Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong bảo đảm và nâng cao chất lượng dạy nghề. Dạy nghề chỉ đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp khi gắn kết được với doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp phải là chủ thể trong quá trình dạy nghề. Mặt khác, việc dạy nghề chính là đào tạo lao động cho doanh nghiệp, doanh nghiệp được thụ hưởng kết quả, sản phẩm của quá trình dạy nghề. Do vậy, doanh nghiệp phải tham gia vào dạy nghề.
Tuy nhiên hiện nay, chính sách phát triển nhân lực Việt Nam xác định không cụ thể trách nhiệm của doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực. Hầu hết doanh nghiệp không quan tâm đến đào tạo, chỉ quan tâm đến tuyển dụng. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, cơ chế trách nhiệm của doanh nghiệp với dạy nghề là nguyên tắc cơ bản của đào tạo nhân lực.
Cơ chế doanh nghiệp với dạy nghề giải quyết được bất cập là: Xác định cầu lao động, trình độ lao động, bố trí nhân lực trên dây truyền sản xuất. Người học chủ động và làm quen thiết bị và công nghệ sản xuất, trong quá trình học có thu nhập, khi tốt nghiệp có thể bổ sung, thay thế lao động trong doanh nghiệp ngay. Đặc biệt, doanh nghiệp đánh giá được chất lượng đào tạo.
Luật Dạy nghề đã có một chương quy định về quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề. Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung những nội dung trong chương này để giải quyết những hạn chế hiện nay.Tuy nhiên, những vấn đề sửa đổi, bổ sung chỉ mang tính chất hợp tác, liên kết, hỗ trợ... mà chưa phải là trách nhiệm (hoặc nghĩa vụ) theo đúng nghĩa của nó.
Tham khảo kinh nghiệm của Đức, cơ chế đào tạo nghề «KÉP» (Dual system) là mô hình được nhiều nước trên thế giới học tập bởi tính ưu việt của nó: Việc học lý thuyết ở trường (chiếm 30% thời gian), việc thực hành thực tập ở doanh nghiệp (chiếm 60-70% thời gian). Do vậy, kết quả đào tạo bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Cơ chế này thực sự hiệu quả vì «DẠY AI ĐƯỢC NẤY».
Tuy nhiên ở Việt Nam, nếu thiết kế theo cơ chế đàc tạo «Kép» trong Luật Dạy nghề thì cũng không dễ thực hiện được. Khó khăn nhất là phải làm thế nào để thay đổi cả tư duy, thói quen, cách làm .v.v... của doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Riêng đối với các doanh nghiệp FDI, hiện nay Chính phủ đã giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện thí điểm cơ chế đào tạo kép đối với các doanh nghiệp của Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc đang đầu tư ở Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để tiếp cận cơ chế đào tạo «Kép» như đã nêu ở trên.
Do vậy, để đáp ứng chất lượng nhân lực, chất lượng dạy nghề, dạy nghề gắn với việc làm bền vững, cần phải có quy định nguyên tắc trong Dự thảo Luật về cơ chế dạy nghề «Kép». Đây là vấn đề mới, do vậy, việc quy định chi tiết về cách thức thực hiện, lộ trình thực hiện điều kiện thực hiện đối với các doanh nghiệp.v.v... sẽ được Chính phủ quy định bằng văn bản dưới luật.
3. Vấn đề chi phí dạy nghề
Đặc điểm của đào tạo nghề khác cơ bản so với đà tạo hệ hàn lâm. Đào tạo nghề là đào tạo kỹ năng «đôi bàn tay» cho người thợ trực tiếp sản xuất theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề. Do vậy, thời gian học thực hành là chính; chương trình được thiết kế theo các mô đun là chính. Cơ sở vật chất, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu thực hành, thực tập rất quan trọng cho việc luyện tập để hình thành và phát triển kỹ năng do vậy đòi hỏi phải được đầu tư đồng bộ. Giáo viên dạy nghề cần giỏi kỹ năng thực hành và giảng dạy tích hợp…
Tất cả những đặc điểm đó quy định cơ chế đầu tư và chi phí đào tạo nghề phải có sự khác biệt so với đào tạo hàn lâm. Cơ sở vật chất cho đào tạo hàn lâm là phòng học chỉ cần phấn trắng, bảng đen, còn đào tạo nghề là xưởng thực hành với đầy đủ trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu để thực hành, thực tập; các điều kiện về điện, nước, trang thiết bị bảo hộ lao động, vệ sinh công nghiệp.v.v.... với khấu hao được tính theo giờ mới bảo đảm cho người học đạt chuẩn kỹ năng nghề, đáp ứng chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đầu tư kinh phí cho đào tạo nghề rất thấp. Ví dụ: Nghề Hàn trình độ cao đẳng cấp độ quốc tế chi phí đào tạo là 69 triệu/sinh viên/khoá học, nhưng tổng thu chỉ khoảng 20 triệu/SV/Khoá (bao gồm nguồn thu từ Ngân sách (trường công lập), thu học phí theo quy định). Như vậy, tổng thu không đủ cho chi phí đào tạo theo chương trình. Trong thực tế, các trường phải mở các dịch vụ đào tạo khác để bù đắp chi phí, hoặc giảm thực hành, thực tập và hệ quả tất yếu là chất lượng đào tạo không đáp ứng yêu cầu.
Liên quan đến vấn đề này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khoá XI) đã xác định «bảo đảm chi trả tương ứng với chất lượng, phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo». Bởi vậy cần nghiên cứu xác định bảo đảm chi phí đào tạo nghề là nguyên tắc trong Dự thảo Luật. Tuy nhiên hiện nay, ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, cơ chế bảo đảm chi phí về đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng rất khó thực hiện, nếu thực hiện theo chính sách xã hội hóa, người học phải đóng học phí cao để bù đắp vào chi phí đào tạo, chắc chắn họ sẽ không đi học nghề. Điều này làm giảm hiệu quả các chính sách phân luồng học nghề đã nêu ở trên, làm cho người dân càng xa lánh với việc học nghề. Vậy, đâu là lời giải cho vấn đề này.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) đã xác định: «Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện». Thiết nghĩ, những vấn đề nêu trên !à những vấn đề lớn, cốt lõi của dạy nghề. Những vấn đề này mặc dù đã được giải quyết phần nào trong Dự thảo Luật, song đây thực sự là những vấn đề khó, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nên chưa giải quyết được toàn diện, triệt để. Do vậy, để giải quyết toàn diện, triệt để hơn nữa cần tiếp tục nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện thêm Dự thảo Luật, bảo đảm Dự thảo Luật đáp ứng tốt nhất yêu cầu từ thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng nhân lực lao động kỹ thuật trực tiếp, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội - Nguyễn Ngọc Phi